Khủng hoảng là vấn đề lớn mà nhân loại thường phải đối mặt, trên nhiều lĩnh vực, ở mọi quốc gia, thậm chí mang tính toàn cầu. Giảm thiểu tối đa hậu quả do khủng hoảng gây ra là mục đích của quản trị khủng hoảng, trong đó một nhân tố quyết định đến thành bại của quản trị khủng hoảng là vai trò người của đứng đầu với sứ mệnh gây dựng niềm tin, chủ động dẫn dắt, tạo động lực và cách thức để đưa cơ quan, tổ chức, đơn vị của mình vượt qua khủng hoảng.
Bài viết của PGS, TS. NGUYỄN NGỌC HÀ – Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Khủng hoảng và quản trị khủng hoảng
Có nhiều cách tiếp cận và giải thích về khủng hoảng. Thông thường, có thể nhận diện về khủng hoảng qua một số đặc điểm sau:
Khủng hoảng là một trạng thái bất thường. Nó diễn ra một cách bất thường, với những biểu hiện bất thường và gây nên những bất thường. Khủng hoảng làm cho những trạng thái – cơ cấu bình thường không còn thích ứng, phải thay đổi bất thường, thậm chí bị tê liệt, phá vỡ. Tính bất thường của khủng hoảng xuất hiện trong thực tế và cả trong dự báo hoặc thậm chí có dự báo nhưng khi xảy ra vẫn dẫn đến khủng hoảng. Khủng hoảng thường xảy ra nhanh (nên còn được gọi là tình huống khẩn cấp), bất ngờ, bất định, dù rằng đa số các trường hợp thì mầm mống của khủng hoảng đã được “ủ” từ rất lâu trước đó; liên tục thay đổi quy mô, tốc độ, thậm chí vượt ra khỏi sự tính toán, tầm kiểm soát của con người. Việc loại bỏ hoàn toàn khủng hoảng khỏi thế giới là điều phi thực tế. Hầu như không thể dự báo được thời gian, địa điểm, hình thái lộ diện và nhất là hậu quả của khủng hoảng.
Sự lan truyền và tính dây chuyền của khủng hoảng. Khủng hoảng thường bắt đầu từ một lĩnh vực, trong không gian cụ thể, nhưng thường không dừng lại và kết thúc trong lĩnh vực và không gian ấy mà tác động hiệu ứng lan sang các lĩnh vực khác, không gian rộng hơn nhiều so với ban đầu; có thể hình dung như kíp nổ và vụ nổ vậy. Vì thế, rất khó tách bạch khủng hoảng với hậu quả của khủng hoảng, bởi hậu quả của khủng hoảng ban đầu sẽ đưa đến những khủng hoảng tiếp theo ở lĩnh vực khác hoặc tính chất của khủng hoảng vẫn vậy nhưng lan rộng tới vùng khác. Sự lan truyền và tính dây chuyền của khủng hoảng khiến nguồn gốc, lĩnh vực, không gian và biểu hiện ban đầu của khủng hoảng đôi khi rất đơn giản, nhưng những khủng hoảng tiếp theo từ sự mào đầu ấy mới thực sự khủng khiếp. Khủng hoảng diễn ra như hiệu ứng “giọt nước tràn ly” – một hiện tượng dường như bình thường, một nguyên nhân nhỏ ban đầu nhưng tác động gây hiệu ứng lan truyền làm sụp đổ một hệ thống lớn.
Tác động lớn, thường là đa lĩnh vực, hiệu ứng lan truyền nhanh, rộng. Người ta thường đo mức độ khủng hoảng cũng như đánh giá một hiện tượng đã đạt đến mức khủng hoảng hay không chủ yếu ở hậu quả của nó, chứ không phải là hiện tượng ban đầu mà nó biểu hiện, tác động. Một hiện tượng bất thường và nguy hiểm khi vẫn tồn tại trong không gian hẹp, đang được kiểm soát thì chưa là khủng hoảng; khi lan rộng, không kiểm soát được và có những tác động lớn thì mới được coi là khủng hoảng. Nói chung, một trạng thái bất thường xảy ra (điều kiện cần) chỉ là hoặc dẫn đến khủng hoảng nếu nó làm lung lay, rung chuyển, phá vỡ hệ thống, thiết chế cũ hoặc buộc hệ thống, thiết chế cũ phải thực hiện những công việc mới, chưa có tiền lệ (điều kiện đủ).
Khủng hoảng gây ra hậu quả, tác hại nghiêm trọng. Khủng hoảng tác động đến thiên nhiên, môi trường với những thiệt hại khó lường hoặc không thể phục hồi; tác động đến kinh tế với những biến số khó lường; tác động đến sinh mạng con người mà không thể bù đắp; tác động đến xã hội dẫn đến sự rạn nứt khó hàn gắn; tác động đến chính trị làm mất đi sự ổn định… Khủng hoảng khoét sâu thêm và làm lộ rõ hơn sự mất cân bằng về tự nhiên, những rạn nứt và bất đồng, mâu thuẫn trong đời sống chính trị – xã hội, những khác biệt và xung đột về văn hoá, những điểm yếu về kinh tế và công nghệ, những hạn chế về mô hình tổ chức, về quản lý xã hội và quản trị quốc gia; sẵn sàng kích hoạt để những vấn đề đó bùng lên thành những cuộc khủng hoảng tiếp theo.
Tuy nhiên, ở góc độ khác, khủng hoảng tạo ra áp lực nhưng cũng là cơ hội để nhận ra những bất cập, điểm yếu mà ở trạng thái bình thường chưa lộ rõ, để phản tỉnh, từ đó điều chỉnh một cách có hệ thống, tạo ra sự phát triển mới, bền vững hơn.
Trong bối cảnh hiện nay, có thể nhận diện thêm một số đặc điểm, biểu hiện mới của khủng hoảng:
– Xuất hiện những cuộc, lĩnh vực khủng hoảng mới, mà khủng hoảng truyền thông là ví dụ rõ nhất, hay như khủng hoảng môi trường, khủng hoảng hạt nhân, khủng hoảng công nghệ, khủng hoảng y tế, mất cân bằng giới…
– Ngày càng nhiều cuộc khủng hoảng có không gian rộng lớn, vượt ra ngoài phạm vi quốc gia, mang tính toàn cầu hoặc phải được quản trị toàn cầu, như: Khủng hoảng tài chính, khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng môi trường, khủng hoảng nhân đạo, y tế, dịch bệnh…
– Tốc độ lan truyền, hiệu ứng nhanh, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, từ vùng này, quốc gia này sang quốc gia khác và trở thành vấn đề toàn cầu. Thế giới đương đại chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng kép, có sự liên thông của khủng hoảng và tác động của khủng hoảng, như từ khủng hoảng về y tế dẫn đến khủng hoảng nhân đạo, khủng hoảng xã hội, đứt gẫy chuỗi cung ứng và sản xuất, khủng hoảng kinh tế…; khủng hoảng về môi trường dẫn đến khủng hoảng về kinh tế, xã hội, ở những vùng cụ thể có thể dẫn đến khủng hoảng về an ninh, về chính trị…; khủng hoảng nguồn nước tác động đến nhiều quốc gia…
– Khủng hoảng và quản trị khủng hoảng nhanh chóng trở thành một vấn đề quốc tế, bị chính trị hoá, quốc tế hoá, thậm chí bị lợi dụng. Sự quan tâm và hành động ứng phó với khủng hoảng ở phạm vi quốc gia và toàn cầu có nhiều động cơ, tính toán lợi ích và cách thức khác nhau. Khủng hoảng đòi hỏi phải có sự chung tay vào cuộc của cộng đồng quốc tế, hầu hết các quốc gia tạm gác lại những bất đồng, bỏ qua một số lợi ích cục bộ; nhưng cũng không ít trường hợp, chủ thể, đối tượng lợi dụng khủng khoảng để “té nước theo mưa”, “đục nước béo cò”, bôi nhọ, chống phá, kích động xung đột, tạo áp lực, gia tăng ảnh hưởng tới quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc tổ chức quốc tế gặp nhiều khó khăn trong khủng hoảng.
“Quản trị khủng hoảng” có nội hàm phức tạp, nhiều cách hiểu, nhưng tựu trung là một quá trình sắp xếp, chuẩn bị và ứng phó, khắc chế và giải quyết khủng hoảng cũng như hậu quả của nó.
Nguyên nhân của khủng hoảng là sự tích tụ – xung đột mang tính hệ thống. Sự phát triển không đều của các yếu tố vốn thiết lập nên một trạng thái bình thường, đến một mức độ nào đó sẽ tạo ra sự mất cân đối và xung đột – khi ấy trạng thái bất thường và khủng hoảng diễn ra. Theo cách đó, có thể hiểu khủng hoảng là một phần tất yếu của cuộc sống. Nhưng tiếp đó, khi các yếu tố tạo ra khủng hoảng va đập, xâm nhập, khắc chế và phối hợp với nhau một cách ổn định tương đối cũng là khi trạng thái bình thường được thiết lập. Có những hiện tượng xảy ra bất thường, tạo ra khủng hoảng, nhưng tồn tại mãi lại trở thành bình thường khi môi trường tự nhiên và xã hội đã thích ứng với nó. Những hiện tượng bất thường sẽ trở về trạng thái bình thường khi xung lực của nó đã hết hoặc đã được đặt trong vòng kiểm soát; cái bình thường sẽ khắc chế được cái bất thường. Đó là quy luật tự nhiên!
Dường như khủng hoảng sẽ tự nó qua đi, nhưng điều đó không có nghĩa là không cần thiết quản trị khủng hoảng. Sự khó lường, bất định, lan tràn và hậu quả khủng khiếp của khủng hoảng đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực quản trị khủng hoảng. Trong nhiều trường hợp, nguy cơ luôn hiện hữu nhưng khủng hoảng chỉ xuất hiện khi việc quản trị không tốt; cùng một hiện tượng, nguyên nhân nhưng không phải nơi nào cũng xuất hiện khủng hoảng. Sự yếu kém, bất cập trong quản lý cũng có thể tự nó tạo ra, khơi lên khủng hoảng. Chưa bao giờ quản lý, ứng phó với khủng hoảng được xem là một việc dễ dàng. Khi khủng hoảng được quản trị tốt thì nó chỉ tồn tại dưới dạng nguy cơ – và lúc đó khủng hoảng không diễn ra, chỉ là tiềm ẩn, dù rằng xung lực ban đầu, tự thân của nó là rất ghê gớm. Khủng hoảng có thể bị kiềm chế, ngăn chặn, giảm thiểu hậu quả. Như đại dịch COVID-19, rõ ràng là khủng hoảng toàn cầu, về sức khoẻ, y tế, nhân đạo, kinh tế, xã hội…, song sẽ khôn lường hơn rất nhiều nếu như không bị kiềm chế bởi cách hành động mà con người đã thực thi. Thế giới cũng chứng kiến có cuộc khủng hoảng đã được ngăn lại kịp thời nếu không đã gây hậu quả khủng khiếp. Lịch sử loài người là quá trình liên tục phải đương đầu, đấu tranh, khắc chế và thích ứng với các cuộc khủng hoảng, cả trong tự nhiên và trong đời sống xã hội. Theo dòng lịch sử, khả năng của con người trong việc quản trị khủng khoảng ngày càng nâng lên, dự báo tốt hơn, hạn chế tác động bất lợi của khủng hoảng một cách hiệu quả hơn trên quy mô ngày càng rộng, sự thích ứng với tình trạng khủng hoảng cũng nhanh hơn và hài hoà hơn.
Có nhiều yêu cầu đặt ra đối với quản trị khủng hoảng. Về lý thuyết thì yêu cầu, mục tiêu cao nhất của quản trị khủng hoảng là để nguy cơ khủng hoảng không trở thành khủng hoảng. Người ta luôn hy vọng là nếu dự báo và quản trị tốt khủng hoảng thì không có khủng hoảng. Song trên thực tế, các cuộc khủng hoảng đều có tác động mạnh mẽ, gây tổn hại nhiều mặt cho đời sống xã hội, dù rằng thụ động hay chủ động con người đều ứng phó, quản trị đạt thành công, kết quả nhất định. Bởi vậy, dường như chỉ có thể ứng phó, giảm thiểu thiệt hại, vượt qua khủng hoảng mà thôi. Mục đích tiên quyết của quản trị khủng hoảng là làm cho nó không gia tăng về mức độ, cường độ, đồng thời giảm đi, hạn chế tác hại của nó. Vì khủng hoảng thường là khủng hoảng kép, có tính liên thông, hiệu ứng nhanh nên phải ngăn chặn, cắt đứt, khu biệt mầm mống, nguyên nhân, biểu hiện và tác động của nó, ngăn chặn sự lây lan của nó sang những phạm vi, khu vực mới. Trong những trường hợp cụ thể, thậm chí có thể tìm thấy và phát huy thành những kết quả tích cực từ trong khủng hoảng hoặc những kết quả có lợi cho lực lượng ứng phó tốt với khủng hoảng.
Do tính bất thường của khủng hoảng nên mục tiêu của quản trị khủng hoảng là phải tạo lập lại trạng thái bình thường và đó sẽ là trạng thái bình thường mới; khác so với tình trạng hậu khủng hoảng, thường phản ánh hậu quả nặng nề khi khủng hoảng đã qua đi. Trong nhiều trường hợp, khả năng này không phụ thuộc vào mức độ thiệt hại trong khủng hoảng mà chủ yếu phụ thuộc vào năng lực quản trị khủng hoảng. Nước Nhật sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và sau cuộc khủng hoảng – thảm họa sóng thần năm 2011 cho thấy điều này.
Nội dung, các bước của quản trị khủng hoảng gồm dự báo và khắc chế, triệt tiêu nguyên nhân; đối phó, kìm chế xung lực và những tác động trực diện tức thời của khủng hoảng, ngăn chặn sự lan rộng và chặt đứt sự liên hệ tới các lĩnh vực khác; khắc phục hậu quả của khủng hoảng. Trong thực tiễn, không có một quy trình chung tuyệt đối và cứng nhắc đối với quá trình quản trị khủng hoảng, ở các lĩnh vực và mức độ của khủng hoảng. Điều này phụ thuộc vào quan điểm, mục tiêu của quản trị khủng hoảng trước từng tình huống và bối cảnh cụ thể, trong đó có vai trò quan trọng của người đứng đầu.
Vai trò của người đứng đầu trong quản trị khủng hoảng
Người đứng đầu là người có địa vị, quyền lực cao nhất trong một tổ chức, đơn vị (thông qua bầu cử, suy tôn, trao truyền, phân công theo các văn bản pháp lý…). Người đứng đầu là cá nhân có sức ảnh hưởng, khả năng hoạch định, thống lĩnh, dẫn dắt và quản lý, chỉ đạo, đốc thúc một tập hợp người, một tổ chức, cơ quan hoặc trong các thiết chế chính trị – xã hội, một quốc gia, một tổ chức quốc tế. Người đứng đầu có thể hiểu là thủ trưởng cơ quan, đơn vị, thủ lĩnh chính trị, người lãnh đạo… Họ nắm được tinh thần chung của cơ quan và tổ chức, là linh hồn trong sự vận hành của cả một hệ thống.
Tùy thuộc vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ, đặc tính của cơ quan, tổ chức, đơn vị mà quyền lực của người đứng đầu cũng có quy mô, mức độ và biểu hiện khác nhau, thông qua những cơ chế, phương thức khác nhau. Nhưng nhìn chung, khi tiếp nhận vị trí cao nhất trong tổ chức, người đứng đầu được trao quyền lực, nguồn lực và cơ chế nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Người đứng đầu chịu trách nhiệm cao nhất về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; chịu trách nhiệm lớn hơn cán bộ, nhân viên mình quản lý, đây là trách nhiệm về chỉ đạo, quản lý, điều hành, kiểm tra, đôn đốc nhân sự để bộ máy hoạt động hiệu quả (1).
Dù có sự khác biệt nhất định giữa người lãnh đạo và người đứng đầu, người lãnh đạo là linh hồn, người đứng đầu là tiên phong và trụ cột; song người lãnh đạo giỏi phải mang tố chất của người đứng đầu và người đứng đầu không thể thiếu tố chất lãnh đạo; họ đều có vai trò quyết định vận mệnh của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Vai trò đó được bộc lộ, nhận thấy rõ nhất trong tình huống khủng hoảng và quản trị khủng hoảng.
Dù có độ trễ, nhưng dường như lịch sử luôn chuẩn bị sẵn những nhân vật lịch sử để giải quyết những biến cố của lịch sử. Thời thế tạo anh hùng, “loạn thế xuất anh hùng”. Quản trị khủng hoảng là một vấn đề lớn, yêu cầu người đứng đầu cần có năng lực vượt trội, bản lĩnh vững vàng để đưa cơ quan, tổ chức vượt qua được khủng hoảng. Trong quản trị khủng hoảng, vai trò người đứng đầu là nổi bật, hết sức quan trọng, được thể hiện chủ yếu trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, dự báo về khủng hoảng và hậu quả của khủng hoảng; đưa ra các kịch bản ứng phó nếu xảy ra khủng hoảng. Đây là công việc đầu tiên và cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định, cũng là việc rất khó khăn. Đó là lý do mà ngày 24-8-2021, chủ trì cuộc họp lãnh đạo chủ chốt, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo việc phòng, chống đại dịch COVID-19 đã nhấn mạnh: “Khó nhất là dự báo tình hình, đề ra kịch bản, phương án. Lường đến khả năng xấu nhất”. Người đứng đầu phải dự báo được thời gian, hình thái lộ diện, diễn biến và hậu quả của khủng hoảng; dự báo về sự thích ứng của cơ chế, sự tham gia của các chủ thể trong chịu đựng, ứng phó, kìm chế và khắc phục hậu quả khủng hoảng; dự báo thực tế về nguồn lực hiện có, nhất là khi nguồn lực có hạn, sử dụng trong tình huống khẩn cấp. Người đứng đầu phải nhìn được trước, xa hơn, nhìn thấu vấn đề, rõ hơn so với người khác; luôn dự phòng cả những tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Họ là người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” theo nghĩa như vậy. Thực tế cho thấy, cùng với dự báo khoa học dựa trên kết quả nghiên cứu, phân tích, tổng hợp thì kinh nghiệm, bản lĩnh và linh cảm của người đứng đầu rất có giá trị trong dự báo.
Thứ hai, xác định sứ mệnh, trách nhiệm, dẫn dắt tư tưởng gắn với nêu gương trong ứng phó khủng hoảng. Mọi cơ quan, địa phương luôn có một thiết chế định sẵn, trong đó thể hiện vị trí, vai trò của người đứng đầu. Về lý thuyết thì trách nhiệm người đứng đầu được thể hiện trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong trạng thái khủng hoảng. Nhưng thực tế cho thấy không ít người đứng đầu tỏ ra bối rối, lúng túng, không xác định được trách nhiệm của mình, thậm chí có người thoái thác trách nhiệm khi xảy ra khủng hoảng. Khủng khoảng đặt ra những thách thức mới đối với hệ thống, thậm chí tác động trực tiếp đến hệ thống. Rất nhanh chóng, người đứng đầu, bằng trách nhiệm và bản lĩnh, dựa trên vị trí, quyền hạn của mình và chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mà mình đứng đầu để xác định trách nhiệm, vai trò của mình trong tình huống khủng hoảng; kể cả trong trường hợp có sự gián đoạn về thông tin, chỉ đạo của cấp trên không liên tục và hệ thống, thiếu sự phối hợp với các lực lượng bên ngoài và đứt gãy giữa các tổ chức, nguồn lực bên trong. Chỉ khi xác định được vị trí, nhiệm vụ, vai trò và sứ mệnh của mình, người đứng đầu mới giữ vững vị trí tiên phong, vai trò nòng cốt, đưa ra quyết định và hành động chèo lái tổ chức của mình vượt qua tình huống hiểm nguy. Sự vững vàng, rõ trách nhiệm, rõ việc, nêu gương tiền phong gương mẫu của người đứng đầu có tác dụng to lớn trong việc giữ vững, củng cố lòng tin cho cả tập thể và mỗi cá nhân, là yếu tố rất quan trọng trong ứng phó, quản trị khủng hoảng.
Thứ ba, lựa chọn mục tiêu, biện pháp thích hợp, hiệu quả. Khủng hoảng luôn đặt chúng ta trước tình thế hiểm nghèo, bất lợi, không có nhiều lựa chọn mục tiêu và giải pháp, mà chỉ có thể lựa chọn những mục tiêu cốt yếu, sống còn. V.I. Lê-nin đã từng chỉ ra tình huống này: “Trong mỗi thời kỳ đặc biệt, cần phải biết tìm cho ra cái mắt xích đặc biệt mà người ta phải đem toàn lực ra nắm lấy để giữ vững được toàn bộ cái xích và chuẩn bị để chuyển vững chắc sang mắt xích kế bên; hơn nữa trình tự nối tiếp, hình thức, mối liên hệ của các mắt xích, và những đặc điểm khác nhau của mắt xích này với mắt xích khác trong cái xích những sự biến lịch sử, đều không đơn giản, và cũng không phải sơ sài như trong cái xích thường do bàn tay người thợ rèn làm ra” (2). Trong trạng thái khủng hoảng, vai trò của người đứng đầu trong lựa chọn mục tiêu là vô cùng quan trọng. Giữa các mục tiêu sống còn, mục tiêu cơ bản, mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, trong tình thế hiểm nghèo, cấp bách, người đứng đầu phải quyết định lựa chọn mục tiêu phù hợp, khả thi nhất; cần phải loại bỏ điều gì, giữ điều gì để có thể bảo toàn lực lượng, lợi ích của đơn vị; sắp xếp thứ tự ưu tiên, cân nhắc các giải pháp có tính chất “đánh đổi”. Thật khó tìm những người thành công mà không dám chấp nhận rủi ro nhất định. Việc lựa chọn mục tiêu cụ thể nào đó cũng có nghĩa là chấp nhận từ bỏ những mục tiêu khác. Như trong tình thế “nghìn cân treo sợi tóc” sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định, trong những tình thế hoàn toàn bất lợi, chúng ta phải chọn điều nào ít hại nhất mà làm. Hoặc gần đây, trong bối cảnh ứng phó với đại dịch COVID-19, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính xác định: “Không có lựa chọn hoàn hảo mà chỉ có lựa chọn tối ưu”.
Thứ tư, xử lý thông tin và đưa ra quyết định. Tùy thuộc vào mức độ và kiểu khủng hoảng, người đứng đầu cùng thành viên của tổ chức, cơ quan sẽ phải đưa ra số lượng, tần suất và hiệu lực, hiệu quả các quyết định khác nhau, đủ để xoay chuyển tình thế. Nhà tương lai học người Mỹ Alvin Toffler (1928 – 2016) phân tích trong cuốn sách nổi tiếng “Làn sóng thứ ba” rằng, gánh nặng quản trị trong khủng hoảng chính là “gánh nặng quyết định” mà người đứng đầu phải chịu trách nhiệm; khi yêu cầu cần đưa ra quyết định ngày càng nhiều, phức tạp và thường xuyên hơn thì gánh nặng quyết định cùng với trình độ người đứng đầu cũng phải cao hơn trước rất nhiều (3). Ngày nay, nhiều cuộc khủng hoảng mang tính toàn cầu, sự phức tạp và độ khó để quản trị khủng hoảng cũng tăng lên gấp bội, “gánh nặng quyết định” đặt lên vai người đứng đầu càng nặng nề.
Khủng hoảng là tình huống bất thường, khẩn cấp. Quản trị khủng hoảng luôn đòi hỏi về tốc độ ra quyết định phải gần như tức thời, bởi sự lúng túng, dùng dằng sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Quyết định nhanh chóng, dứt khoát hoàn toàn khác với quyết định vội vàng, hấp tấp; đòi hỏi chiều sâu từ trí tuệ, bản lĩnh, sự sáng suốt và cả linh cảm của người đứng đầu.
Thứ năm, quyết đoán phương pháp, giải pháp phù hợp, hiệu quả nhất có thể. Tính quyết đoán là một tiêu chuẩn rất quan trọng của người đứng đầu, đặc biệt quan trọng trong tình huống khẩn cấp. Trong tình trạng khủng hoảng, những sự việc diễn biến bất thường, nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của những phương án, quyết định, quy trình hiện có. Lựa chọn cách giải quyết tình huống ấy luôn có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí xung đột với nhau ngay trong nội bộ và những tổ chức, cá nhân có liên quan; sự phán xét, bình luận từ bên ngoài cũng đa chiều, nhất là trên mạng xã hội, là một áp lực lớn. Trong tình huống đó, vai trò quyết đoán của người đứng đầu càng phải được thể hiện, vượt lên dư luận, định hướng, dẫn dắt dư luận. Từ sự dự phòng những tình huống xấu, có những quyết sách phải đi trước một bước. Sự quyết đoán đó phải dựa trên tư duy độc lập, sáng tạo và bản lĩnh, linh cảm chính trị tốt, là những phẩm chất quan trọng của người đứng đầu; khác hoàn toàn với tác phong độc đoán, gia trưởng, bảo thủ, quyết mọi việc một cách chủ quan, duy ý chí, phiến diện, tùy tiện, vô nguyên tắc…
Khủng hoảng có nguyên nhân từ sự mất cân đối, tích tụ, xung đột mang tính hệ thống, đều có căn nguyên. Việc quản trị khủng hoảng đôi khi chỉ là tháo “kíp nổ”; nhưng thực ra “khối thuốc nổ” vẫn tồn tại. Quản trị khủng hoảng tận gốc phải là chọn thời điểm và địa điểm để “vụ nổ” của “khối thuốc nổ” ấy không gây tác hại xấu, thậm chí còn tạo tác động tích cực theo chủ đích của chủ thể quản trị. Khủng hoảng là một quá trình, có quy luật hình thành, phát triển và tiêu vong, nên người đứng đầu sẽ quyết định về thời điểm can thiệp, phương pháp và lộ trình quản trị khủng hoảng hiệu quả nhất.
Thứ sáu, sử dụng hiệu quả tổ chức, cơ chế và các nguồn lực để đối phó, quản trị khủng hoảng. Vấn đề khó nhất, cũng thể hiện rõ nhất vai trò của người đứng đầu là phải sử dụng nguồn lực và cơ chế hiện có, vốn thích ứng trong trạnh thái bình thường để ứng phó với trạng thái bất thường, trong điều kiện nguồn lực sẽ ngày càng khan hiếm, hữu hạn so với yêu cầu. Khủng hoảng là bất thường nên xử lý, quản trị khủng hoảng không thể bằng các quyết định, biện pháp, quy trình, phương thức vận hành thông thường, do đó đòi hỏi sự quyền biến, linh hoạt của người đứng đầu trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực.
Nhiều ví dụ cho thấy rằng, trong các tình huống khó khăn, nguy nan, những người lãnh đạo nổi tiếng xử lý dựa vào trực giác, linh cảm, những ý tưởng lóe sáng nhưng khả thi hơn là theo những kịch bản, sự chuẩn bị có sẵn, tất nhiên là trên nền tảng chiều sâu trí tuệ, sự dày dạn kinh nghiệm, trong sự cân nhắc kỹ càng tương quan lực lượng, các nguồn lực sẵn có. Đôi khi đó là quyết định khác với lựa chọn của số đông. Đại tướng Võ Nguyên Giáp với quyết định khó khăn trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chuyển sang thực hiện phương châm “đánh chắc tiến chắc” thay cho “đánh nhanh thắng nhanh” là một ví dụ. Nói chung, người đứng đầu có khả năng dẫn dắt hệ thống, cơ quan, tổ chức vượt qua khủng hoảng phải là người có những tố chất như trực giác nhạy bén, độc lập trong tư duy, kiên quyết và can đảm trong hành động.
Thứ bảy, tạo bước chuyển sang trạng thái bình thường mới và quản trị tốt trạng thái bình thường mới. Dù thuật ngữ “trạng thái bình thường mới” xuất hiện trong thời gian gần đây, nhưng thực tế nó luôn tồn tại sau khi các cuộc khủng hoảng đã được giải quyết. Trong mối quan hệ lượng – độ – chất, khủng hoảng thường dẫn đến “độ” đòi hỏi một sự thay đổi trạng thái – trạng thái “bình thường mới”. Người đứng đầu không chỉ có vai trò quan trọng trong quản trị khủng hoảng mà còn nhìn thấy những động cơ, thời cơ, yêu cầu để thay đổi trong và sau khủng hoảng. Họ cũng chính là người lập ra các kịch bản “hậu khủng hoảng”, chọn ra kịch bản tối ưu để dẫn dắt hướng tới…
Để phát huy hơn nữa vai trò của người đứng đầu trong quản trị khủng hoảng
Vai trò của người đứng đầu xuất hiện ngay từ khi hình thành xã hội loài người, khi con người nguyên thuỷ có nhu cầu tập hợp thành nhóm; cũng từ đó đã xuất hiện khái niệm về thủ lĩnh, lãnh tụ. Nhìn chung, trong bất cứ thiết chế nào, vai trò cá nhân người đứng đầu, thủ lĩnh đều thể hiện, dù ở những mức độ và hình thức khác nhau.“Trong bất kỳ thể chế, tổ chức nào cũng phải có một người có thẩm quyền quyết định cao nhất, một “ông chủ” mà mọi người phải tuân theo” (4).
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin đề cao vai trò cá nhân của những lãnh tụ trong mối quan hệ với sức mạnh vĩ đại của quần chúng là người làm lên lịch sử. “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” (5). Trong điều kiện đảng cộng sản cầm quyền, các nhà mác-xít bàn nhiều hơn về vai trò quản lý (quản trị) của những người lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu. V.I. Lê-nin coi đó là “tinh hoa của giai cấp” với phẩm chất được thể hiện trên các mặt: “a) Về mặt trung thực, b) Về lập trường chính trị, c) Về hiểu biết công việc, d) Về năng lực quản lý” (6). Người chỉ dẫn, trong việc triển khai nhiệm vụ công tác tại một cơ quan, đơn vị, “thì chỉ nên giao cho một đồng chí thôi, một đồng chí có tiếng là cương nghị, có tinh thần quả quyết, mạnh dạn, có khả năng lãnh đạo công tác thực tiễn và được tín nhiệm nhất” (7).
Trong lịch sử Đảng ta, ở mọi thời kỳ cách mạng đều xuất hiện những tấm gương người đứng đầu đức độ, bản lĩnh, tài năng đã chèo lái, dẫn dắt phong trào, xoay chuyển tình thế, đưa cách mạng vượt qua sóng gió, hiểm nguy, giành thắng lợi to lớn, mà điển hình là lãnh tụ kiệt xuất Hồ Chí Minh và những học trò xuất sắc của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò của cá nhân phụ trách, trong mối quan hệ mật thiết với tập thể lãnh đạo: “Vì sao cần phải cá nhân phụ trách? Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho 1 người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong.
Tục ngữ có câu: “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa” là như thế. Vì lẽ đó, cho nên lãnh đạo cần phải tập thể, mà phụ trách cần phải cá nhân.
Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc” (8).
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta càng nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm người đứng đầu. Văn kiện Đại hội VI (năm 1986) đề cập khái niệm “người đứng đầu” với tư cách là một bộ phận trong nhóm lãnh đạo, quản lý. Đại hội lần thứ XI (năm 2011), Đảng đặt ra yêu cầu đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu; người đứng đầu thuộc đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, thuộc nhóm lãnh đạo, quản lý, nhưng đã có sự tách riêng, nhằm làm nổi bật vai trò, trách nhiệm người đứng đầu: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu” (9). Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện những nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung” (10).
Hiện nay, tình hình thế giới đang trải qua những biến động to lớn, rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo; nhiều yếu tố làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế; những vấn đề toàn cầu, như: Bảo vệ hoà bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường,… tiếp tục diễn biến phức tạp. Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Những khó khăn, thách thức mới do đại dịch COVID-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gay gắt, phức tạp… ngày càng tác động mạnh đến sự phát triển đất nước (11). Đảng ta càng chú trọng “xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết” (12).
Để có được đội ngũ cán bộ là người đứng đầu đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng tốt nhiệm vụ trong bối cảnh mới, phát huy hơn nữa vai trò người đứng đầu trong ứng phó và quản trị khủng hoảng, cần tập trung vào một số nội dung sau:
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu có đủ phẩm chất, bản lĩnh và năng lực đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ, trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong trạng thái khủng hoảng
Trong những năm gần đây, Đảng ta ngày càng nhấn mạnh vai trò người đứng đầu, đưa ra những tiêu chí – yêu cầu, trách nhiệm cụ thể của người đứng đầu, những giải pháp để phát huy vai trò người đứng đầu. Một số nghị quyết, quy định đề cập đến nội dung này, như: Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp”, Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 7-6-2012 của Hội nghị Trung ương 4 khoá XI, “Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương”… Đáng chú ý là, Đảng đã yêu cầu người đứng đầu phải gương mẫu đi đầu chủ động, kịp thời xử lý có hiệu quả các tình huống khẩn cấp, đột xuất, bất ngờ trong địa phương, lĩnh vực mình phụ trách.
Người đứng đầu trong trạng thái ổn định và người đứng đầu trong khủng hoảng có những yêu cầu cụ thể khác nhau. V.I. Lê-nin đã nêu quan điểm: “Bất kỳ công tác nào cũng đều đòi hỏi phải có những đặc tính riêng biệt” (13). Người đứng đầu trong trạng thái ổn định cần tố chất giữ vững thế trận, duy trì sự ổn định và phát triển, còn người đứng đầu trong trạng thái bất thường cần tố chất để thay đổi cục diện. Song hoàn toàn không có nghĩa là người đứng đầu chỉ thể hiện tố chất, năng lực, vai trò trong từng thời nhất định. Mỗi người có những năng lực thiên bẩm khác nhau, hợp những thời khác nhau, nhưng với tố chất chung là nhạy bén, quyết đoán, có trách nhiệm và dám chịu trách nhiệm, thể hiện được vai trò của mình trong từng bối cảnh, tình huống, từng thời; chỉ có điều ở mỗi thời cần phát huy những năng lực, sở trường khác nhau mà thôi. Lịch sử đã cho thấy những người lãnh đạo tài giỏi cả trong thời bình và “thời loạn”, trưởng thành trong “thời loạn” và thành danh trong thời bình hoặc được bồi dưỡng trong thời bình và thành danh trong “thời loạn”. Trong xã hội hiện đại, quyền lực và cơ chế đối với người đứng đầu theo sự bố trí, phân công, quy định của các tổ chức và thiết chế, bởi thế vai trò, năng lực đều được thể hiện cả trong điều kiện bình thường và bất thường. Chỉ những người dám hành động khác thường mới phá vỡ được quy tắc thông thường. Người đứng đầu trong trạng thái khủng hoảng, bất thường đòi hỏi những tố chất khác thường, mà thực ra những tố chất ấy chưa có dịp bộc lộ trong trạng thái bình thường.
Một người đứng đầu phát huy được vị trí, vai trò trong quản trị khủng hoảng thì trước hết phải đáp ứng tốt những tiêu chuẩn chung nhất. Người đứng đầu chưa phát huy tốt vai trò của mình trong trạng thái bình thường, ổn định thì càng không thể phát huy được vai trò trong trạng thái khó khăn, khủng hoảng. Thực tế cho thấy, nhiều người đầy đủ tài năng, kiến thức, kinh nghiệm, khi thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo đơn vị, tổ chức trong trạng thái ổn định, an toàn, kết quả đạt được thường rất tốt; nhưng khi khủng hoảng xảy ra, những cách thức làm việc của họ để ứng phó, quản trị khủng hoảng lại không đạt hiệu quả cao. Điều đó đặt ra yêu cầu trong xây dựng đội ngũ người đứng đầu đủ tố chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cần được trang bị tốt những kiến thức, kỹ năng, đáp ứng yêu cầu trong trạng thái khủng hoảng. Cần xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong xử lý những “điểm nóng”, những tình huống bất thường. Mạnh dạn luân chuyển cán bộ, người đứng đầu, nhất là những cán bộ cấp chiến lược về những vị trí có nhiều thách thức, khó khăn, để rèn luyện xử lý những tình huống bất thường, khủng hoảng.
Hai là, xây dựng cơ chế làm việc của người đứng đầu trong trạng thái khủng hoảng.
Hầu hết các cơ quan, tổ chức, đơn vị đều có hệ thống pháp luật, cơ chế, quy định để bộ máy được vận hành; nếu cá nhân vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong nhiều trường hợp đặc biệt, khi cơ quan, đơn vị xảy ra khủng hoảng, người đứng đầu phải có những quyết sách, hành động chưa có tiền lệ, có thể ra những quyết định không hoàn toàn phù hợp với quy định và pháp luật hiện hành. Nhưng những cá nhân dám “vượt rào” các quy định không phù hợp với bối cảnh cụ thể, làm khác với quy trình có sẵn rất dễ bị đánh giá là sai phạm, phải chịu kỷ luật. Đây là một trong những vấn đề rất nhạy cảm, giống như trường hợp của “cha đẻ của khoán hộ”, cố Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc (1917 – 1979), người đã phải chịu kỷ luật khi được cho là có sai lầm trong khoán hộ, dù rằng sau này ông được đánh giá là người mở đầu công cuộc đổi mới trong nông nghiệp. Người đứng đầu ở trong khủng hoảng khi bị ràng buộc bởi cơ chế và quy định, có thể trở thành người hùng, nhưng cũng rất dễ trở thành tội đồ, dù trong bối cảnh khủng hoảng họ phải quyết định, lựa chọn hành động nhanh chóng, vượt lên hoặc khác với quy định để quản trị khủng hoảng. Bởi vậy, rất cần những quy định, cơ chế cho phép người đứng đầu thực hiện những quyết định, biện pháp, nguồn lực đặc thù, đặc biệt, nằm ngoài những quy định hiện hành, để quản trị khủng hoảng một cách hiệu quả.
Từ thực tiễn đặt ra cho nhiệm vụ quản trị khủng hoảng và vai trò của người đứng đầu trong quản trị khủng hoảng, cần phải xây dựng một chế độ làm việc đặc biệt, độc lập dành cho người đứng đầu trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, ít nhất là chế độ đó phải được thực hiện trong quá trình xử lý khủng hoảng. Vai trò của người đứng đầu trong giải quyết khủng hoảng thường được phát huy tối đa trong chế độ thủ trưởng, giải quyết mối quan hệ giữa cơ chế, quy định và pháp luật với quá trình xử lý khủng hoảng. Chế độ thủ trưởng có thể được xem như chế độ làm việc đặc biệt của người đứng đầu, nó được hiểu là chế độ lãnh đạo, làm việc mà những người đứng đầu cơ quan, tổ chức có toàn quyền tự quyết định và chịu trách nhiệm cá nhân về mọi vấn đề trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức do mình quản lí, điều hành (14). Chế độ thủ trưởng cho phép người đứng đầu trong tổ chức được quyền thực hiện những quyết định, hành động ở những nội dung chưa có quy định trên cơ sở các quyết định đó mang lại giá trị cho tổ chức trong bối cảnh khủng hoảng. Chế độ làm việc của thủ trưởng mang lại sự an tâm nhất định cho người đứng đầu, đồng thời tạo cho họ môi trường và điều kiện để phát huy bản lĩnh, trí tuệ, khả năng ứng biến, xử lý tình huống. Giống như một “nút thắt” mà nếu mở ra thì người đứng đầu có thể xử lý được khủng hoảng một cách nhanh chóng và triệt để dựa trên vai trò, trách nhiệm, trí tuệ của mình. Khủng hoảng là tình huống đặc biệt, khi khủng hoảng xảy ra, người đứng đầu cũng cần có những chế độ làm việc đặc biệt, chế độ thủ trưởng đáp ứng yêu cầu đó và điều này là hoàn toàn hợp lý, dựa trên kinh nghiệm từ chính thực tiễn đặt ra.
Ba là, xây dựng cơ chế trao quyền cho người đứng đầu trong trạng thái bất thường, tình huống khẩn cấp.
Vai trò cá nhân người đứng đầu, trong mọi trường hợp không thể vượt qua nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 7-6-2012, của Hội nghị Trung ương 4 khoá XI, “Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” chỉ ra tình trạng nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân. Do vậy, có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, đồng thời có thể tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lợi dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân. Trong trạng thái khủng hoảng, việc xử lý mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân người đứng đầu càng có ý nghĩa quan trọng, cần được vận dụng cụ thể.
Thông thường, việc ra quyết định luôn có quy trình dựa trên trí tuệ, ý kiến tập thể; nhưng trong trường hợp khẩn cấp thì quyết định cá nhân là cần thiết và phát huy tác dụng. Trong trạng thái khủng hoảng, khẩn cấp, thường không đủ thời gian và cả cơ chế để phát huy vai trò của cơ chế tập thể; người đứng đầu phải quyết định khi không thể chỉ dựa vào hoặc không có nghị quyết của tập thể. Bởi vậy, cần thiết xây dựng cơ chế trao quyền cho người đứng đầu khi tình huống khẩn cấp xảy ra; xây dựng quy trình ra quyết định của cá nhân người đứng đầu trong tình huống khẩn cấp. Trao quyền cho cá nhân người đứng đầu không có nghĩa là thu hẹp, triệt tiêu vai trò của tập thể lãnh đạo; càng không có nghĩa là uỷ thác toàn bộ, phó mặc trách nhiệm cho người đứng đầu. Tập thể lãnh đạo cần có sự đồng thuận, thống nhất tư tưởng cao với quyết định của người đứng đầu; là hậu thuẫn vững chắc cho quyết định của người đứng đầu; là lực lượng nòng cốt thực hiện quyết định của người đứng đầu trong quá trình quản trị khủng hoảng.
Vai trò người đứng đầu trong quản trị khủng hoảng là rất quan trọng, nhưng không thể tuyệt đối hoá vai trò đó, càng không được tách rời với vai trò của tập thể, của tổ chức, của cơ chế và pháp luật trong quản trị khủng hoảng. Vai trò cốt lõi của người đứng đầu là giữ vững, tập hợp, phát huy tốt sức mạnh của tổ chức, của tập thể, vốn được hình thành và hoạt động trong trạng thái bình thường vẫn tiếp tục phát huy trong trạng thái khủng hoảng và quản trị khủng hoảng. Ý nghĩa quan trọng của tập thể, tổ chức, cơ chế là gắn kết, trao quyền cho người đứng đầu trong tình huống khủng hoảng một cách thích hợp.
Xây dựng cơ chế trao quyền, uỷ quyền của cấp trên, người đứng đầu cấp trên cho cấp dưới, người đứng đầu cấp dưới trong trạng thái khủng hoảng rất cần thiết để việc thực thi các biện pháp quản trị khủng hoảng gần hơn với thực tiễn cơ sở, sát hơn với diễn biến tình hình thực tế, tạo thêm sự chủ động, quyết đoán cho người đứng đầu cơ sở trong quản trị khủng hoảng. Có cơ chế giao quyền cho người đứng đầu trong trạng thái khủng hoảng, đồng thời cũng cần có cơ chế thu hồi quyền lực ấy khi trạng thái bình thường được thiết lập.
Người đứng đầu có trách nhiệm xây dựng bộ máy và cơ chế ứng phó với khủng hoảng. Trong trường hợp cụ thể, người đứng đầu cơ quan, tổ chức không phù hợp với vị trí đứng đầu khi có khủng hoảng nhưng lại cần xây dựng được đội ngũ trợ giúp mình, thậm chí trao quyền, uỷ quyền đứng đầu cho người khác khi có khủng hoảng.
Bốn là, làm rõ trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu trong quản trị khủng hoảng.
Người đứng đầu có sứ mệnh lãnh đạo, điều hành cơ quan, đơn vị, tổ chức và chịu trách nhiệm trước các quyết định của mình trong khủng hoảng. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, có tư duy độc lập, linh hoạt, kiên định mục tiêu bảo toàn, huy động được lực lượng và nguồn lực nhằm đưa cơ quan, đơn vị thoát khỏi khủng hoảng.
Trong quá trình khủng hoảng diễn ra, nhân tố quyết định cho việc xử lý khủng hoảng không phải là những biện pháp đã được dự tính trước đó, mà là nhân tố con người, trong đó có vai trò người đứng đầu. Bởi vậy, khi xảy ra khủng hoảng và trước nhiệm vụ quản trị khủng hoảng, trách nhiệm của người đứng đầu là trước hết, trên hết. Đó là trách nhiệm lãnh đạo, quản lý, điều hành; trách nhiệm về tư tưởng và tổ chức; trách nhiệm nêu gương; trách nhiệm trước sự thành bại trong quản trị khủng hoảng.
Khủng hoảng luôn xảy đến một cách nhanh chóng, sức tàn phá của nó khó để ước lượng và nếu chậm trễ, có thể mọi thứ sẽ kết thúc. Nhiều trường hợp bế tắc, tình huống xảy đến bất chợt, yêu cầu người lãnh đạo phải quyết định ngay tức khắc khi chưa nhận được sự chỉ đạo của cấp trên, không tham khảo được ý kiến của cấp dưới, của tham mưu và không thể chỉ dựa vào những văn bản quy định hiện hành để giải quyết, bởi nếu chậm trễ, hậu quả sẽ khôn lường. Người đứng đầu giằng xé giữa các quan điểm, nhóm lợi ích, cái cơ bản và cái chủ yếu, cái trước mắt và cái lâu dài. Quyết định hay giải pháp chỉ là một yếu tố của kết quả cuối cùng, vì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác. Thành ra có những quyết định đúng nhưng kết quả không đúng và ngược lại. Bởi lý do trên, cần làm rõ trách nhiệm, trao quyền, xây dựng cơ chế, huy động nguồn lực để người đứng đầu có khả năng cao nhất hoàn thành nhiệm vụ. Việc đánh giá người đứng đầu là hiệu quả quản trị khủng hoảng, chứ không phải là có đúng quy trình, quy định hay không. Trong quản trị khủng hoảng, những gì chưa có quy định thì người đứng đầu quyết định và chịu trách nhiệm. Cần xử lý khách quan những trường hợp vi phạm quy định, vượt quyền, nhưng với động cơ, mục đích vì lợi ích chung. Đồng thời, phải tránh việc do chưa có quy định, ngại “va chạm” mà chối bỏ, thoái thác trách nhiệm, sao nhãng thực thi nhiệm vụ, máy móc thực hiện những quy định, quy trình không phù hợp, hiệu quả trong quản trị khủng hoảng. Mặt khác, phải kiên quyết chống lạm dụng trách nhiệm người đứng đầu trong quản trị khủng hoảng. Ngăn chặn, xử lý nghiêm những trường hợp lợi dụng khủng hoảng để mưu lợi cá nhân, lợi ích nhóm, trục lợi trên sinh mạng của nhân dân./.
———————–
(1) Nguyễn Thái Sơn: “Thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu chế độ tập trung dân chủ của ban lãnh đạo”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 9-5-2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/821868/tham-quyen%2C-trach-nhiem-ca-nhan-nguoi-dung-dau-va-che-do-tap-trung-dan-chu-cua-ban-lanh-dao.aspx
(2) V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 36, tr. 252
(3) Xem: A. Toffler: Làn sóng thứ ba, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, tr. 204
(4) Peter F. Drucker: Tinh hoa quản trị, Nguyễn Dương Hiếu dịch. Nxb. Trẻ, 2008, tr. 102.
(5) V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.4, tr. 473.
(6) V. I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 53, tr. 127.
(7) V. I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 39, tr. 52 -53.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5, tr. 619 – 620
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 143.
(10), (11), (12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 42, 107 – 108, 187
(13) V. I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 40, tr. 248
(14) Phạm Thị Liên: “Chế độ thủ trưởng là gì? Trách nhiệm cá nhân của chế độ thủ trưởng”, Trang thông tin điện tử Công ty TNHH Luật Minh Khuê, ngày 21-1-2021, https://luatminhkhue.vn/che-do-thu-truong-la-gi—khai-niem-ve-che-do-thu-truong.aspx
nguồn:https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/quan-tri-khung-hoang-va-phat-huy-vai-tro-nguoi-dung-dau-trong-quan-tri-khung-hoang
Bài này đã được đọc 219 lần!